phiên ngoại đông cung
Khối ngoại có tuần thứ 7 rút ròng, tâm điểm bán vẫn cổ phiếu "quen thuộc" ngành thép Phiên giao dịch ngày 10/10, VN-Index đóng cửa ở mốc 1.042,48, tăng 6,57 điểm (+0,63%) so với phiên trước đó. Thanh khoản cùn được cải thiện đáng kể với gần 600 triệu cổ phiếu được giao dịch, tổng khối lượng khớp lệnh trên toàn sàn đạt mức hơn 15 nghìn tỷ đồng.
68 Phiên ngoại Nguyên Sơ mười năm, tháng ba. Tảo triều bên trên, Cố Thận Chi hạ chỉ lập hoàng trưởng tử Cố Cảnh vì thái tử, chính vị đông cung. Lúc đó, đại trưởng công chúa vừa lúc tiến cung bồi tiếp a Yên, nghe được tin tức này sau, nụ cười trên mặt càng thêm sâu.
Phiên ngoại sau: Nhất giá tường vi mãn viện hương sẽ nhắc đến con gái của Tiết Mộ Chiêu và Bùi Tam Lang, cùng với con trai của Lí Thừa Ngân (A Mục x Thập Lục Nương). Sáng sớm, nội mệnh phụ đều đã được phát tơ ngũ sắc. Tiết Mộ Chiêu lúc dậy cũng đã buộc một đoạn tơ, vì tiến cung nên mới cởi xuống đeo kim xuyến.
Bước 3: Mtại đoạn mềm WD Smartware nhằm tăng cấp lên phiên phiên bản Pro bằng phương pháp cung ứng tên, tương tác email. Hệ thống gửi mang lại 3 key để kích hoạt với upgrade, mỗi laptop chỉ có 1 code. Ổ cứng đính thêm ngoại trừ WD My Passport: WD My Passport có những dòng
Đông Cung Có Phúc, Chương 228, Phiên ngoại chi đế hậu một nhà (mười sáu) Hiện menu. Chương 228: Phiên ngoại chi đế hậu một nhà (mười sáu) ===== (mười sáu) Người này quá bá đạo! Nhìn như hào hoa phong nhã, một phái nhã nhặn ôn nhuận, lại bá đạo đến cực điểm.
Wie Kann Ich Deutsche Frauen Kennenlernen. – Sau khi Đông Cung khép lại với cái kết bi thảm hôm 4/4, ê-kip làm phim đã tung ra phần ngoại truyện mang màu sắc hạnh phúc hơn để an ủi các fan. Đang xem đông cung ngoại truyện 'Đông Cung' không tránh khỏi kết buồn Bằng chứng là ảnh về già của Lý Thừa Ngân! Giữa lúc khán giả vẫn đang kiên trì cầu mong một cái kết có hậu hơn so với nguyên tác bi lụy của “Đông Cung” phiên bản tiểu thuyết, ê-kip làm phim lại tung ra những hình ảnh báo hiệu điều ngược Cung phiên bản phim vẫn giữ nguyên cái kết như trong tiểu thuyết gốc của tác giả Phỉ Ngã Tử Tồn là để nữ chính Tiểu Phong kết liễu mạng sống để bảo vệ nền hòa bình trong lúc hai bên đang chuẩn bị giao Phong cuối cùng vẫn chết…… để lại một Lý Thừa Ngân với nỗi dằn vặt suốt đờiKhông ít người hâm mộ đã khóc hết nước mắt khi xem những phân cảnh cuối của Đông Cung. Tuy nhiên, đoàn phim đã sớm tung ra phần ngoại truyện, ghi lại cuộc sống hạnh phúc của cặp đôi ở thế giới hiện đại để fan bớt đau còn những tranh giành, lừa dối như phiên bản phim, Tiểu Ngũ và Tiểu Phong nay tận hưởng những phút giây viên mãn bên nhau ở một vùng quê, đúng như mong ước mà kiếp trước họ không thể nào đạt sự xuất hiện thêm của “Bùi Chiếu” và “A Độ”, phần ngoại truyện nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ khán giả. Xem thêm Cách Kiểm Tra Cấu Hình Máy Tính Win 8 Hoặc Win 10 Mạnh Hay Yếu Ngoại truyện mở màn với cảnh “giường chiếu” của cặp phu thê Vong Xuyên, nhưng ở thế giới hiện đại. Tiểu Ngũ nay được vợ gọi là Lão Ngũ trở thành anh bán chè đúng như những gì anh từng “chém gió” ở kiếp trước. Tiểu Phong tỉnh dậy khỏi một cơn ác mộng nhưng cạnh nàng là ông xã đầy tình cảm, với lời hứa “ác mộng chỉ là thứ ngược lại với hiện thực” và anh “sẽ luôn ở bên và là chỗ dựa vững chắc” cho đoạn dường như mang hàm ý mọi chuyện kinh khủng họ trải qua trong quá khứ đã thực sự ở lại phía sau. Trước mắt hai người sẽ chỉ còn lại những tháng ngày êm đềm, hạnh phúcClip kế tiếp của Đông Cung ngoại truyện đánh dấu màn tái xuất của “A Chiếu”, nay trở thành anh thu phí cầu đường với lý do “cây cầu này là do nhà tôi xây dựng”. Dù gây hấn ngay lần đầu gặp gỡ, 3 người sau đó đã trở thành bằng hữu, còn rủ rê nhau sang nhà dùng hình ảnh cuộc sống hạnh phúc của vợ chồng Lão Ngũ tiếp tục xuất hiện trong phần 3. Dù đối mặt với khó khăn kinh tế, cặp đôi vẫn tận hưởng những khoảnh khắc ngọt ngào, bình dị, như cùng chia sẻ ly trà hay bàn về bữa phần kết, “A Độ” vào vai cán bộ kế hoạch hóa gia đình. Cô nàng tới giao cho Tiểu Phong một quyển sách dạy phụ nữ cách đối phó nếu bị chồng bắt nạt. Nhân tiện, cô cũng khuyên cặp đôi sớm sinh em bé theo chính sách “2 con”.Đông Cung ngoại truyện khép lại với lời cảm ơn từ ê-kip sản xuất, nhắn nhủ rằng “Goodbye” trong tựa tiếng Anh của phim Goodbye my princess chỉ là sự tạm xa rời, đồng thời mong sớm gặp lại khán giả trong các phim sau. Xem thêm 1 Sào Bằng Bao Nhiêu Mét Vuông, 1 Sào Bằng Bao Nhiêu M2, Hecta, Thước Được chuyển thể từ tiểu thuyết của Phỉ Ngã Tử Tồn, Đông Cung là bộ phim cổ trang, xoay quanh những tranh đoạt quyền lực và địa vị đã kéo hai nhân vật chính Tiểu Phong Bành Tiểu Nhiễm thủ vai và Lý Thừa Ngân Trần Tinh Húc tiến về phía nhau, yêu thương nhau rồi lại hận thù nhau tột độ. BÁO ĐIỆN TỬ THỂ THAO & VĂN HÓA – TTXVN Post navigation
Nói đến văn học Trung Quốc cùng với những cuốn ngôn tình kinh điển, Đông cung sẽ luôn là một lựa chọn không thể nào bỏ Ngã Tư Tồn lại một lần nữa chứng minh sự phù hợp với danh xưng “mẹ ghẻ” qua tác phẩm Đông cung của mình. Đông cung và những câu văn thấm đẫm vào lòng người đọc Đông cung kể về một cuộc tình vừa ngọt ngào nhưng cũng đau thương của cặp đôi Lý Thừa Ngân và Tiểu Phong. Tiểu Phong vốn là cửu công chúa được luôn nhận được vô vàn ân sủng tại đất nước Tây Lương. Ấy thế mà, chỉ vì ngăn chặn công cuộc bình định Tây Vực của Trung Nguyên hùng mạnh mà nàng đã bị sắp đặt vị trí thái tử phi của Trung Nguyên. Bìa sách của Đông cung sau khi được tái bản. Thái tử đương triều lại là Lý Thừa Ngân, thân phận cao quý, dưới một người, trên vạn người. Có lẽ cũng chính vì điều đó mà chàng luôn có thái độ rất miễn cưỡng mỗi khi phải đối mặt với vị hôn thê sắp đặt này của mình. Lý Thừa Ngân cũng có cuộc sống của riêng chàng bên cạnh vị ái phi Triệu Lương đệ, Triệu Sắt Sắt. Tiểu Phong cũng vậy, hạnh phúc mỗi ngày nàng tạo ra cho mình ở chốn hoàng cung buồn tẻ chính là những khoảnh thời gian được lén lút xuất cung, giả trang thành nam nhân vào Phường Minh Ngọc, cũng như là đi bắt trộm cướp, cứu người. Mười lăm tuổi, Tiểu Phong bước chân vào chốn hoàng cung xa hoa của Trung Nguyên dưới lời sắp đặt định sẵn cho bản thân trở thành thái tử phi. Thái tử đương triều lúc này lại là một kẻ đã có người trong lòng và luôn mang theo tâm lý khi dễ nàng mỗi khi gặp mặt. Poster cho bộ phim chuyển thể Đông cung Đáng lẽ, cuộc sống của họ sẽ tiếp tục trôi như vậy và chỉ biết tới nhau trên danh nghĩa hôn thê, thế nhưng, những ái toan trong chốn cung đình, những tranh chấp địa vị dần dà kéo theo Tiểu Phong vào. Cũng chính vào khoảnh khắc ấy, họ dần đặt thêm nhiều dấu chân của bản thân trong cuộc sống của người kia. Tình cảm của họ dần đâm chồi nảy lộc, mọi chuyện cũng bắt đầu chuyển biến theo chiều hướng tốt. Cho đến một hôm, Cố Kiếm xuất hiện. Cuốn sách Đông cung đã được tái bản một lần nữa. Ngay từ những giây phút đầu gặp gỡ, Cố Kiếm trong ấn tượng của Tiểu Phong chính là một kẻ lạ mặt kì dị. Ấy thế nhưng, nàng không hay biết rằng, cũng chính nhờ vào vị nam nhân này, nàng đã mở khóa những kí ức chôn giấu sâu bên trong nàng. Cố Kiếm đã mang theo những hẹn ước đã lỡ lầm ba năm trước đó đến gặp Tiểu Phong. Những ngày tháng tiếp theo trong cuộc sống của cặp vợ chồng Lý Thừa Ngân và Tiểu Phong bắt đầu trải qua không mấy lạc quan khi mà cả hai bắt đầu mang trong mình những khúc mắc của những ký ức mà Tiểu Phong nhớ lại. Lý Thừa Ngân đáng thương hay đáng trách Xuất thân là chàng thái tử đất nước Trung Nguyên hùng mạnh, Lý Thừa Ngân luôn mang trong mình trọng trách lớn trước sự phát triển của đất nước. Trọng trách ấy cũng chính là bước khởi đầu cho tất cả những sai lầm và đau thương mà cặp đôi Lý Thừa Ngân và Tiểu Phong phải trải qua trong suốt khoảng thời gian chung sống với nhau cũng như khoảng thời gian ban đầu gặp mặt. Lý Thừa Ngân đã dùng họ của mẫu thân để đặt cho mình một cái tên khác là Cố Tiểu Ngũ để bắt đầu hành trình giả trang thành một thiếu gia nhà phú thương, sắp đặt mọi thứ trong cuộc chạm mặt đầu tiên với Tiểu Phong. Trần Tinh Húc đã thể hiện một Lý Thừa Ngân si tình nhưng lại lạnh lùng. Nếu ai đó hỏi liệu Lý Thừa Ngân có yêu Tiểu Phong thật hay không, chàng sẽ trả lời là có. Song, tình yêu của chàng cũng giống như một sự cố ngoài ý muốn đối với kế hoạch nắm giữ ngôi vương của chàng. Tình yêu mà họ dành cho nhau cũng không thể sánh với những hận thù và tham vọng của Lý Thừa Ngân. Chàng vẫn giữ cho bản thân sự lạnh lùng và tàn nhẫn của mình. Lý Thừa Ngân sinh ra và được nuôi dưỡng trong hận thù cung đấu, bằng những mưu mô hãm hại và thủ đoạn tàn độc người không chết thì ta chết. Tình yêu đối với chàng chỉ như một sự kế hoạch, một nước cờ được thêm vào đột ngột trong ván cờ sinh tử này mà thôi. Lý Thừa Ngân được Trần Tinh Húc thể hiện qua tính cách lạnh lùng và tàn nhẫn, Chàng sẵn sàng tàn nhẫn với chính người con gái mình thương yêu. Chàng cứ nghĩ thế là ổn. Lý Thừa Ngân cũng đã quá tự tin, chàng tự tin rằng Tiểu Phong sẽ không thể rời bỏ chàng bởi chàng hiểu nàng rất yêu chàng. Nhưng chàng có thật sự đã hiểu hết trái tim của người con gái ấy. Tuy nhiên, những màn lợi dụng rồi tìm cách bù đắp, hủy hoại rồi lại tìm cách yêu thương đã khiến cho tình yêu của Tiểu Phong bị dập lần nữa, nàng kiên quyết rời bỏ chàng, thả mình xuống vực thẳm. Giây phút cuối cùng, chàng gào lên thảm thiết. ” Là ta… Tiểu Phong… Ta là Cố Tiểu Ngũ…” Quá khứ ba năm về trước được lặp lại, chỉ khác là, dưới chân thành cao vời vợi, nào phải sông Quên trong kí ức, đó là vực thẳm sâu vạn trượng, chỉ cần nhảy xuống là tan xương nát thịt. Nhưng đó đã là gì so với những gì chàng đã gây ra cho nàng. Những câu văn đẫm nước mắt dành cho Tiểu Phong Phỉ Ngã Tư Tồn thật sự đã rất nhẫn tâm với những nhân vật của mình trong Đông cung. Tiểu Phong cũng chính là một trong những nhân vật để lại nuối tiếc nhiều nhất cho độc giả. Tiểu Phong là nhân vật phải chịu nhiều đau thương nhất của Đông cung. Nàng đắm chìm vào tình yêu với Cố Tiểu Ngũ nhưng cũng chính vì những toan tính để hoàn thành nhiệm vụ bình định Tây Vực của chàng, nàng đã phải trả một cái giá vô cùng đắt. Diễn viên Bành Tiểu Nhiễm đã gột tả tròn vẹn hình ảnh Tiểu Phong trong Đông cung Trong suốt khoảng thời gian ba năm sinh sống ở Thượng Kinh, người bạn duy nhất mà Tiểu Phong có chính là nữ cận vệ A Độ, người theo chân nàng, chăm sóc nàng từ khi còn ở Tây Lương cho đến khi đặt chân tới Trung Nguyên. Tiểu Phong đã từng là một nàng công chúa ngây thơ, phóng khoáng, hồn nhiên. Nàng từng dành cả một trái tim, một tình yêu cho Cố Tiểu Ngũ-Lý Thừa Ngân. Thế nhưng cũng chính Lý Thừa Ngân đã giết chết Cố Tiểu Ngũ. “Chàng bắt cho ta một trăm con đom đóm, ta sẽ đồng ý lấy chàng.” Cuộc sống của chốn hoàng cung Trung Nguyên vốn dĩ chính là một cái lồng son nhốt giữ nàng, hút cạn sinh lực của nàng bằng những cuộc tranh đấu giành địa vị và những luật lệ nghiêm khắc khác hẳn Tây Lương tự do, phóng khoáng. Chắc có lẽ cũng chính vì sự tù túng đó đã đồng thời tạo nên một bước đẩy cho những kí ức về Đột Quyết, về cuộc tình ba năm về trước của nàng và về thảm họa đã diễn ra với đất nước thân yêu của nàng. “Nước sông Quên, đặng quên tình…” Khoảnh khắc nàng đứng trên đỉnh núi Thiên Hằng, liệu lúc đó phải chăng nàng đang đau lòng trước những gì bản thân đang trải qua? Nàng có lỗi với dân tộc Đột Quyết, có lỗi với phụ mẫu, có lỗi với ông ngoại. Liệu có phải nàng đang đổ lỗi cho chính bản thân khi đã ngây ngô tin tưởng và trao cả tấm lòng cho Cố Tiểu Ngũ. Sự trung thành và tận tụy của A Độ A Độ vốn chỉ là một nhân vật phụ luôn đứng cạnh Tiểu Phong. Từ đầu tới cuối truyện Đông cung, vì không thể nói nên A Độ không hề có dù chỉ một lời thoại. Ấy vậy mà, dưới những câu chữ của mẹ ghẻ, từng diễn biến tâm lý cho đến những cảm xúc mà A Độ dành cho vị công chúa đáng thương của mình luôn được miêu tả rõ đến từng mức độ. Khoảnh khắc nhìn thấy Cố Tiểu Ngũ xuất hiện bên cạnh Tiểu Phong, A Độ đè chừng, A Độ lo lắng rằng liệu gã thanh niên con nhà thương buôn trà này liệu có làm hại đến công chúa của nàng hay không. Hình ảnh của diễn viên Na Cát Mã thủ vai A Độ trong phim chuyển thể Đông cung, Nàng mang tất cả khả năng để thăm dò Cố Tiểu Ngũ, thế nhưng, màn lừa gạt của hắn lúc này lại quá kín đáo, quá bất ngờ. Cuối cùng, những điều nàng lo sợ đã diễn ra, công chúa của A Độ, nhà vua và hoàng hậu của A Độ, nàng đã không thể bảo vệ họ. Có lẽ cũng chính vì điều ấy mà A Độ đã dành hết những tâm huyết còn sót lại của mình để chăm sóc cho Tiểu Phong ở xứ người, ở nơi đông cung lạnh lẽo ấy. A Độ trở thành người thân duy nhất bên cạnh Tiểu Phong, bảo vệ cho nàng và chăm sóc cho nàng. Những cử chỉ ấy nhẹ nhàng, ấm áp đến mức người đọc dường như thấy sự xót xa của A Độ bên trong đó. Đó cũng chính là cách mà A Độ muốn dành để bù đắp cho vị công chúa yêu kiều của mình. “Dường như A Độ rất xót xa, muội ấy ôm tôi vào lòng, kẽ xoa đầu tôi như đang an ủi một đứa trẻ.” A Độ nâng niu Tiểu Phong đến như thế, nàng chăm sóc cho Tiểu Phong nhiều như vậy. Thế nên, có lẽ khoảnh khắc ám ảnh nhất cho A Độ chính là khi Tiểu Phong theo nàng gieo mình trên bức tường thành cùng hình ảnh A Độ ôm lấy thi thể nàng trong sự bàng hoàng, sợ hãi đã được gột tả rõ nét dưới từng câu chữ của Phỉ Ngã Tư Tồn. Ba năm gắn bó say cả đời người Có lẽ, nếu như ngay từ ban đầu, nếu như Lý Thừa Ngân không giả thành Cố Tiểu Ngũ, cũng không đi đến Tây Lương để giả danh thiếu gia nhà thương. Cuộc tình của hai người sẽ không có điểm khởi đầu. Lúc ấy, Tiểu Phong sẽ mãi mãi là công chúa Tây Lương hoạt bát, năng nổ, hòa đồng còn chàng sẽ tiếp tục nắm giữ vị trí thái tử của mình rồi lên ngôi hoàng đế Trung Nguyên. Cuộc sống của họ sẽ lặng lẽ đi song song với nhau và cả hai sẽ không phải chịu đựng bất kỳ tổn thương nào cả. Thế nhưng, trong Đông cung, không có từ có lẽ… Cuộc sống của họ như hai đường thẳng, đi ngang qua nhau, cắt nhau và rồi lại vụt qua nhau. “Chàng đã bao giờ thật lòng thích ta chưa? Dù chỉ chút cỏn con thật lòng?” Đông cung cùng với các nhân vật trong câu chuyện tình của mình đã để lại cho các khán giả một cảm xúc luyến tiếc, đau thương. Chính cái vòng xoáy hận thù trong quá khứ và thực tại đã kéo họ vào một chuỗi đau thương dằn vặt. Những quá khứ trong kí ức của Tiểu Phong trong trẻo, ngây thơ hồn nhiên như pha lê, tuy nhiên, trong chính cái khoảnh khắc hạnh phúc ấy chính là hiện thực tàn khốc đang dằn xéo tâm hồn bị tổn thương của nàng. Ba năm trước, tại nơi miền cát vàng Tây Vực, Cố Tiểu Ngũ đã hoàn toàn chiếm đươc trái tim của Tiểu Phong. Tuy nhiên, cũng chính dựa vào điều đó, Lý Thừa Ngân đã lợi dụng điều đó để hủy hoại tất cả những gì nàng có, từ gia đình cho đến đất nước thân yêu. Hình ảnh cặp đôi Tiểu Phong và Cố Tiểu Ngũ hạnh phúc ở Tây Lương. Ba năm sau, ở chốn đông cung Trung Nguyên lạnh lẽo, Tiểu Phong lại một nữa rơi vào lưới tình của Lý Thừa Ngân. Lần này, nàng cũng lại một lần nữa trở thành con cờ trong cuộc chiến địa vị của Lý Thừa Ngân. Đông cung dằn vặt đến đau lòng nhưng lại cũng ngọt ngào đến tận tâm can Những dòng văn ngược tâm của Phỉ Ngã Tư Tồn thường không khiến người đọc phải bật khóc hay chạnh lòng trước những câu chữ ấy. Bởi lẽ, chỉ khi ta đọc hoàn thiện cả một tác phẩm của bà và ngồi nghĩ ngợi những chuyện gì đó, những câu chữ ấy như ùa về trong trí nhớ của bạn. Sự tái hiện của chúng trong kí ức của độc giả ấy chính là một nét thành công của Phỉ Ngã Tư Tồn. Khi đọc Đông cung, câu nói nước sông Quên, đặng quên tình hay bài ca con cáo trên thảo nguyên dù chỉ xuất hiện duy nhất hai lần, ấy vậy mà, câu nói ấy như khắc một nét bút trong tâm hồn người đọc. “Có con cáo nhỏ cô đơn, Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình, Cơ mà đâu phải ngắm trăng, Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê. Có con cáo nhỏ bơ vơ, Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình, Nào đâu cáo muốn sưởi mình, Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua” Những nút thắt trong Đông cung cũng giống như một cái vòng xoáy luôn cuỗm cả tâm hồn người đọc vào bên trong và đưa người đọc đi theo mạch truyện đến không thể tự chủ dừng chân lại. Bước chuyển thể thành công trên màn ảnh nhỏ Đặc biệt nhất cho cuối năm 2019 này, bộ phim chuyển thể gây chấn động nhất chính là Đông cung. Vốn được dự định chuyển thể từ năm 2016, ấy vậy mà Đông cung phải đến đầu năm 2019 mới được cho ra lò. Trailer bộ phim Đông cung Cốt truyện vẫn chú trọng xoay quanh chuyện tình dằn vặt giữa nàng công chúa Tiểu Phong xinh đẹp, phóng khoáng vùng Tây Châu, do Bành Tiểu Nhiễm thủ vai, cùng chàng thái tử Lý Thừa Ngân lễ độ, lịch lãm nhưng đầy dã tâm dưới lỗi diễn của Trần Tinh Húc. Nương theo cốt truyện của mẹ ghẻ, Đông cung, từ những con chữ lay động lòng người đã đến với các khán giả của mình bằng hình ảnh chân thực, sống động cùng các chất âm thanh dân dã, quen thuộc, chi tiết đến từng góc độ. Đông cung được đầu tư công phu về mặt hình ảnh. Không chỉ thế, kĩ xảo phim có thể chấp nhận được cùng với lối diễn xuất qua ánh mắt của Bành Tiểu Nhiễm và Trần Tinh Húc chính là những điều tạo nên thành công cho Đông cung. Trở thành một trong những bộ phim ngôn tình đẫm nước mắt đáng xem nhất trong năm 2019, Đông cung được đánh giá như một bước chuyển lớn trong mảng phim chuyển thể. Tính thực tế trong từng chi tiết nhỏ của Đông cung Mặc dù là một tác giả luôn nắm giữ các kỉ lục doanh thu, mẹ ghẻ, cùng với các tác phẩm ngược tâm của mình, đã trở thành nhân vật bị các độc giả căm ghét nhưng đồng thời cũng yêu thương. Tính thực tế trong truyện của Phỉ Ngã Tư Tồn được thể hiện bằng cách bà đẩy ngã những tâm hồn đang chìm đắm trong tình yêu vào trong những sự thật tàn khốc và đáng sợ mà họ chưa nhận ra. Tác giả Phỉ Ngã Tư Tồn, người đã thổi hồn cho tác phẩm Đông cung. Những con chữ của mẹ kế chính là những lời vạch trần cho một hiện thực rằng bất kể ai đi chăng nữa đều cũng không thể vì một người, hay vì một mối tình mà bỏ qua tất cả những trắc trở, những e ngại, những cấm đoán của cuộc sống. Cuộc tình của Lý Thừa Ngân và Tiểu Phong cũng là minh chứng cho những toan tính trong cuộc sống mà mỗi mối quan hệ đều phải từng trải qua một lần. Trong suốt khoảng thời gian ba năm ở cạnh nhau đó, Tiểu Phong đã gieo vào lòng của Lý Thừa Ngân những hạt mầm nhỏ mà phải dành thời gian chăm sóc dài gần ba năm ấy để chờ chúng nảy mầm. “Người vô tình vẽ hoa, vẽ lá. Tôi đa tình tưởng đấy là mùa xuân.” Tuy nhiên, tình yêu đã nảy mầm rồi thì cũng có thay đổi được gì khi mà cuộc sống của Lý Thừa Ngân không thể không vì giang sơn, vì những chiến công mà bấy lâu nay hắn gầy dựng. Tất cả những điều đó chính là kết quả thực tế nhất mà Phỉ Ngã Tư Tồn dành cho tình cảm của các nhân vật của mình. Ví như Lý Thừa Ngân với số mệnh nắm giữ đất nước, đứng trên vạn người, chàng không thể không hy sinh bất cứ thứ gì của bản thân. Rõ ràng nhất cho cái giá mà chàng phải trả đó là cái chết của tình yêu Tiểu Phong dành cho chàng khi còn là Cố Tiểu Ngũ và cũng như sự ra đi của Tiểu Phong. Tiểu Phong cũng có những thứ nàng phải đánh đổi. Là cửu công chúa của Tây Lương, nàng luôn đanh đánh trong lòng ước mơ được trả thù cho mẹ, cho ông ngoại, cho các đồng bào Đột Quyết của mình. “Tôi và chàng, giữa đôi ta là ân oán, là đôi bờ cách trở bởi biển máu hận thù. Thì ra lãng quên không hẳn là bất hạnh, có khi may mắn đích thực lại là nó. Ước gì tôi có thể quên như chàng thì tốt biết mấy.” Cuộc sống của nàng kể từ khi nhớ lại mọi thứ cũng đã bị thay đổi. Tiểu Phong không thể nào quên đi những gì Lý Thừa Ngân đã gây ra với dân tộc, với người thân của mình để đón nhận lấy tình yêu của cả hai cũng như tiếp tục cuộc sống không lo không nghĩ của mình như trước. Đông cung và những nỗi ám ảnh Nhìn lại những gì Tiểu Phong đã làm với Lý Thừa Ngân, chúng ta dường như đã thấy được nàng đã hoàn thành xuất sắc việc trả thù của mình. Thay vì trực tiếp ám hại Lý Thừa Ngân, nàng để hắn nhìn thấy khoảnh khắc nàng rơi xuống dưới chân thành Ngọc Môn. Nàng đã để cho Lý Thừa Ngân phải sống để nhìn lại những gì bản thân đã làm, để dằn vặt trước cái chết của nàng, để cho chàng nghe thấy nàng nói câu “Ta phải quên được chàng, Cố Tiểu Ngũ.” Cái kết mà Tiểu Phong dành cho Lý Thừa Ngân vừa khiến cho độc giả vừa hả hê vừa chua xót. Tiểu Phong dành một đời yêu Lý Thừa Ngân – Cố Tiểu Ngũ, thế nhưng những gì nàng nhận lại chính là những màn lường gạt, những đau thương và nước mắt. Cũng vì lẽ đó, cái chết đôi khi lại là cách giải thoát tốt nhất cho nàng. Đọc từng phiên ngoại của Đông cung, đôi khi các độc giả vẫn không thể kìm được nước mắt. Phỉ Ngã Tư Tồn rất xứng đáng với danh xưng Bi tình thiên hậu của mình khi đã khiến cho những độc giả thuộc với thế hệ trẻ muốn chọn lọc một tác phẩm ngôn tình thực tế. Tuy nhiên, những tác phẩm của bà, đặc biệt là Đông cung, thường được đánh giá như một bát súp gà cay xè ấm áp cho buổi tối, cái vị cay ấy sẽ hun đỏ đôi mắt của bạn bằng những con chữ ngược tâm. Vy Lương
Phiên ngoại Hồ Thái Dịch phù dung vẫn nở – A Mục! Tôi kéo tay áo cậu ấy, nhưng sửa lại cách xưng hô, khẽ gọi – Điện hạ… A Mục ngước nhìn tôi vẻ ngỡ ngàng. Cậu ấy vận áo bào trắng rộng thùng thình, con ngươi đen láy, vẻ mặt còn vương nét ngây thơ. Theo quy định của cung cấm, tôi không được phép gọi thẳng tên mụ của Thái tử, song từ năm bảy tuổi tôi đã tiến cung, A Mục nhỏ tuổi hơn tôi, lúc đó mới lên năm. Hai chúng tôi thân nhau như anh em, tôi lớn hơn nên lúc nào cũng che chở cậu ấy. Lúc cậu ấy không thuộc bài, ngay trước mắt Thái phó mà tôi cũng lén gỡ bí, lúc cậu ấy bị phạt, tôi còn bắt chước nét chữ của cậu ấy, chép giúp cậu ấy một tập sách dày mà không hề bại lộ. Chúng tôi cùng nhau bắn nỏ trong ngự hoa viên, cùng nhau chơi chọi dế, trèo cây, trêu ghẹo một vài cung nữ khó tính… Chúng tôi dần trưởng thành, nhưng tôi biết, tình bạn giữa chúng tôi không hề thay đổi. Mỗi lần buồn phiền, A Mục thường tâm sự với tôi. Còn tôi, tôi luôn nghĩ cách giải quyết giúp cậu ấy. Chuyện buồn phiền của A Mục thì nhiều lắm, Bệ hạ chỉ có mình cậu ấy là con trai, đương nhiên sẽ đặt nhiều kỳ vọng vào cậu ấy. Song, đứng trước một vị Hoàng đế anh minh, dù là ai thì cũng thấy mình thật tầm thường, nhỏ bé. A Mục từng hỏi tôi – Đệ phải làm gì mới được như Phụ hoàng đây? Tôi không biết nên trả lời thế nào. Bệ hạ là vị quân vương có tài thao lược về quân sự, từng chinh phạt Tây Vực, bình định Nam Di, đánh bại vô số thành trì lớn nhỏ, xây dựng cơ nghiệp bền vững muôn đời… Đứng trước địa đồ núi sông của bản triều, người ta khó kìm được cảm giác sục sôi. Hơn trăm năm kể từ ngày dựng nước, lãnh thổ quốc gia chưa bao giờ rộng lớn đến thế. Hằng năm cứ đến kỳ tuế cống[1], chư hầu các nước lại đổ về chầu, dâng cống phẩm tỏ lòng quy phục. Tôi từng được theo cha, hầu Bệ hạ lên Thừa Thiên Môn, nghe muôn dân tung hô vạn tuế, âm thanh vang dội khắp cửu thành. Ngay cả những đứa trẻ còn chưa hiểu chuyện như chúng tôi cũng có cảm giác trời đất rung chuyển, khí huyết sục sôi. Vậy mà Bệ hạ cũng chẳng nhếch mép cười lấy một lần, mỗi lần người chỉ đứng chốc một lát rồi sai người hầu buông rèm, xa giá về thẳng Tây cung. Dường như trong mắt vị đế vương kiêu hãnh, lạnh lùng ấy, những phồn hoa trên đời cũng chỉ là mây khói… [1] Nộp cống hằng năm. Có người cha như thế, chẳng trách A Mục thật đáng thương. Bệ hạ thông thạo cả cung lẫn ngựa, thiên triều giành được thiên hạ từ trên lưng ngựa. Trong quá trình dạy dỗ các thế hệ con em quý tộc thì cưỡi ngựa, bắn tên là môn học vỡ lòng, văn võ chỉ đứng thứ hai. Một tay cha dạy dỗ tôi thành tài, trong số các anh em cùng trang lứa, võ công của tôi được đánh giá ở mức khá, song vẫn kém xa với Bệ hạ. Tôi từng được chứng kiến Bệ hạ thể hiện bản lĩnh. Hôm đó, tôi và A Mục hầu người bách bộ trong ngự hoa viên, có đôi chim non líu lo hót trên cành, Bệ hạ cầm bộ nỏ trên tay A Mục, nhón một viên đạn vàng, nhắm bắn đôi chim kia. Có lẽ câu nói “Một mũi tên trúng hai con chim nhạn” chính là đây. Chỉ một viên đạn đã bắn rơi hai con chim, ắt hẳn lực bắn phải rất mạnh. Bệ hạ vốn không thích những thứ thành đôi, thành cặp. Các triều đại trước, khi hồ Thái Dịch trong cung nở sen Tịnh đế[2], người ta coi đó là điềm lành, có không ít những vị học sĩ đã tức cảnh sinh tình nảy ý thơ. Vậy mà năm Khâm Hòa thứ hai, hồ Thái Dịch nở sen Tịnh đế, không ai dám tâu lên Bệ Hạ, sau cùng nội thị họ Vương đánh bạo, sai người lén cắt cành sen ấy đi mới yên chuyện. [2] Là hai đóa sen nở trên cùng một cuống, loài hoa sen thanh tao, thuần khiết, hiếm có bậc nhất, xưa kia dành để tiến vua nên mới có tên “Tịnh đế” Cũng bởi tính khí Bệ hạ vốn kỳ quái, lúc xây Tây Uyển, thậm chí đến cả số điện thờ phụ cũng là số lẻ. Công bộ lang trung Trương Liễm vốn là người tỉ mỉ, cẩn thận, nhưng trong chuyện này lại vô cùng thoải mái. Tuy Lễ bộ[3] cũng biết làm thế là phạm phải quy tắc của liệt tổ liệt tông, nhưng nói cho cùng thì Tây Uyển cũng chỉ là rừng uyển của hoàng thất, không thể xem như cung điện chính thống được, nên đành mắt nhắm mắt mở cho qua. [1] Bộ Lễ hay Lễ bộ là tên gọi của một cơ quan hành chính thời phong kiến, tương đương với Bộ giáo dục và Bộ Ngoại giao ngày nay. Sở dĩ Lễ bộ biết điều như thế cũng bởi tính khí ngang tàng của Bệ hạ tăng dần theo năm tháng, nhưng không ai dám khuyên can. Nói thì vậy, song Bệ hạ không phải vị vua mê muội, lẩm cẩm. Người vẫn vô cùng anh minh khi chọn người hiền tài, chuyện triều chính giải quyết đâu ra đấy. Còn ở hậu cung lại chẳng có vị phi tử nào đắc sủng. Bệ hạ cũng không mấy mặn mà với thanh sắc, thỉnh thoảng có mở hội đi săn, song cũng không hẳn là thú vui. Quần thần cũng đành chịu thua vị vua không đam mê tửu sắc, không ham thích những thú vui hay của ngon, vật lạ này. Nghe nói các bậc bề tôi rất đỗi lo lắng vì Bệ hạ chỉ có một vị hoàng tử nối dõi. Đối với hoàng thất, chuyện này thực sự nghiêm trọng, nên tránh sao khỏi nỗi buồn lo. Rất nhiều tấu chương nhắc nhở được dâng lên, như thể nếu Bệ hạ không sinh được chín, mười hoàng tử, e rằng sẽ có lỗi với bàn dân thiên hạ. Vậy mà Bệ hạ vẫn chẳng mảy may quan tâm. Năm Khâm Hòa thứ tư, cuối cùng Hiền phi Lý Thị cũng mang thai. Triều đình và muôn dân đều mong ngóng Hiền phi sẽ hạ sinh cho Bệ hạ thêm một người con trai. Không may Lý Thị sinh khó, vượt cạn sinh được một công chúa thì Hiền phi qua đời. Công chúa có hiệu là Triêu Dương. Bệ hạ lấy tên chính điện Triêu Dương để phong thụy hiệu cho công chúa, đủ thấy người cưng chiều con gái thế nào. Công chúa Triêu Dương sinh ra đã trắng trẻo, đáng yêu vô cùng. Có lẽ vì thương công chúa vừa chào đời đã mồ côi mẹ nên đích thân Bệ hạ chăm sóc công chúa ngày đêm. Thậm chí trong những buổi thiết triều, Bệ hạ còn dắt theo công chúa, đặt công chúa ngồi trên đùi mình, dường như việc chơi đùa với cô con gái nhỏ còn quan trọng hơn cả chuyện quốc gia đại sự… Thoạt đầu quần thần cũng bất bình, dần dà lại nhận ra mặt tích cực của công chúa Triêu Dương. Nếu Bệ hạ có nổi giận, không kẻ nào dám làm trái ý thiên tử, chỉ cần sai bảo mẫu ẵm công chúa đến, thì có khi tội tày trời cũng thành vô tội. Công chúa Triêu Dương thường bật cười khanh khách, vươn tay sà vào lòng Bệ hạ. Lúc Bệ hạ ẵm công chúa, trên gương mặt luôn nở nụ cười rạng rỡ. Năm Triêu Dương lên bốn tuổi đã được vua ban thực ấp[4] vạn hộ cùng rất nhiều nô bộc. Thậm chí vì thương con gái mà Bệ hạ không tiếc công xây dựng một ngự hoa viên trên Ly Sơn, chỉ bởi công chúa Triêu Dương mắc chứng hen suyễn, Thái y khuyên nên đưa công chúa đến vùng suối nước nóng để tĩnh dưỡng. [4] Vùng đất và những hộ dân được ban cho quan lại và chịu sự quản lý của họ. Người trong thiên hạ đều hay biết, báu vật Bệ hạ coi trọng nhất trên đời chỉ có mình Triêu Dương. A Mục thường nói với tôi rằng – Trọng An này, không biết mai sau ai có phúc lấy được Triêu Dương nhỉ? Tôi hiểu ý cậu ấy, ai lấy được Triêu Dương, người ấy sẽ có cả thiên hạ. Triêu Dương ngày một trưởng thành, càng thêm xinh xắn, nhưng cũng nghịch ngợm hơn hẳn thuở bé. Giữa chốn hoàng cung này, chỉ có Triêu Dương là sống hồn nhiên, vô tư. Tôi thường nghe tiếng công chúa cười, như tiếng chuông ngân vang lảnh lót, lại như một loài chim biết hát, không phải chính công chúa là một chú chim non lém lỉnh đấy chứ? Khi trưởng thành, Triêu Dương rất thích quấn chân A Mục, cũng bởi Bệ hạ chỉ có một người con trai và một người con gái, bọn họ là anh em ruột thịt. Công chúa thường vận đồ nam, cùng chúng tôi lén xuất cung ra ngoài chơi, dù sao thì trong cung cũng chẳng ai dám ngăn cản muội ấy. Ba chúng tôi thường xuyên ra phố, vào quán uống trà, xem ca hát tạp kỹ, nghe nghệ nhân kể chuyện … Những ngày tháng đó thật vui vẻ, trong sáng và thuần khiết. Giờ nhớ lại, cả cuộc đời tôi, quãng thời gian hạnh phúc nhất là khi có A Mục và Triêu Dương bên mình. Khi Triêu Dương qua đời, trái tim chúng tôi tan vỡ. Nhưng người đau khổ nhất chính là Bệ hạ, chỉ qua một đêm mà tóc người bạc trắng. Bệ hạ ngồi một mình trong điện Triêu Dương, lặng lẽ không quan tâm đến bất kì ai. A Mục quỳ rất lâu ngoài điện, song cũng chẳng được người triệu kiến. Bệ hạ hạ chiếu mai táng cho Triêu Dương ở Du Lăng. Nơi ấy là lăng tẩm của người, toàn bộ được xây dựng theo lễ chế của Hoàng đế, cũng bởi công trình quá đồ sộ, nên mãi vẫn chưa hoàn thành. Giờ đây, trở thành nơi mai táng cho đứa con gái nhỏ người hằng yêu thương. Triều thần cùng muôn dân không ngớt lời bàn tán, dị nghị, cuối cùng Bệ hạ buộc phải bỏ bớt tượng đặt trước lăng, thu hẹp chiều dài của mộ đạo, chỉ cốt làm lắng đi những lời bàn tán ồn ào. Mười ngày không thiết triều, trăm ngày quốc tang, Bệ hạ thực hiện tất cả các lễ chế để truy điệu Triêu Dương. Nhưng trên thực tế, chuyện triều chính không chỉ ngưng mười ngày, bởi từ đó trở về sau, Bệ hạ không còn thiết triều nữa. Tấu chương của quan lại các cấp chất thành chồng cao tại Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, Thái phó không khỏi than thở với A Mục. Nhiều lần A Mục tiến cung, song vẫn không được Bệ hạ triệu kiến. Tôi biết A Mục đang lo lắng vô cùng, nhưng cũng chỉ biết an ủi – Đợi Bệ hạ vượt qua nỗi đau này rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi. Thế nhưng trong cung ai cũng biết, Bệ hạ không thể nào vượt qua nỗi đau này. Dường như Bệ hạ đã biến thành một người khác, chẳng còn hứng thú với bất kì ai, bất kì việc gì nữa. Nếu trước đây người là vị vua lạnh lùng, có hoài bão lớn, thì giờ đây vị vua ấy chỉ là người cha với trái tim nguội lạnh, âu sầu. Tình hình sức khỏe của Bệ hạ ngày một suy yếu, có thời gian người ngã bệnh rất trầm trọng, vậy mà vẫn một mực sai người đi triệu sứ thần Tây Lương. Tây Lương là nước thuộc địa lạ lùng nhất dưới quyền thiên triều đất nước nhỏ bé, thế lực yếu, lại toàn là sa mạc… Các nước chư hầu khác theo lệ phải phái hoàng tử đến Thượng Kinh, lấy danh nghĩa là học hỏi lễ nghi của Trung Nguyên, nhưng trên thực tế là làm con tin. Vậy mà duy nhất Tây Lương không có con tin, chẳng những vậy, Tây Lương còn tỏ thái độ ngạo mạn xấc xược, thường xuyên không đến triều cống, nhưng Bệ hạ lại rất nể nang Tây Lương. Người chinh chiến Tây Vực, bình định các nước xung quanh, chỉ chừa lại Tây Lương. Nghe người già trong cung nói, có lẽ nguồn cơn của việc này bắt đầu từ Minh Đức Hoàng hậu. A Mục và tôi đều biết, Minh Đức Hoàng hậu là cái tên cấm kị, tuyệt đối không được nhắc đến. Minh Đức Hoàng hậu vốn là Thái tử phi ở Đông cung của Bệ hạ khi người còn tại vị Thái tử, tiếc thay phúc mỏng phận bạc, năm Nguyên Khánh thứ hai mươi, trước khi Bệ hạ nối ngôi đã qua đời vì bạo bệnh. Hình như Bệ hạ chẳng mấy tình nghĩa với Thái tử phi quá cố này, đến tận năm Khâm Hòa thứ chín, Lễ bộ nhắc tới, lúc ấy người mới miễn cưỡng hạ chiếu thư, truy phong người đó làm Minh Đức Hoàng hậu. Chuyện xưa đã trôi qua hai mươi năm, lễ truy phong cũng vô cùng sơ sài, đơn giản. Minh Đức Hoàng hậu được an táng tại Định Lăng, Bệ hạ cũng không hề ban chiếu xây lăng tẩm theo lễ chế dành cho Hoàng hậu, thậm chí người không hề hạ chiếu nói sau khi mình tạ thế, sẽ để vị Hoàng hậu được truy phong này tuẫn táng tại Dụ Lăng. Trước và sau khi truy phong Hoàng hậu, Bệ hạ không hề đến lễ an táng Thái tử phi. Trong cung đồn rằng Bệ hạ không ưa vị Thái tử phi này, năm đó vì mối bang giao giữa hai nước, Bệ hạ bị ép phải sắc lập người con gái ngoại tộc làm Thái tử phi, người luôn cho rằng đó là mối nhục của hoàng thất. Có lẽ vì thế mà trong sử sách chỉ ghi chép một dòng gồm hơn mười chữ giới thiệu về cuộc đời của vị Minh Đức Hoàng hậu này. A Mục nhớ mãi chuyện cấm kị ấy, bởi có lần công chúa Triêu Dương không biết tìm đâu ra một bộ quần áo của người Hồ, muội ấy hớn hở vận lên người rồi đi yết kiến Bệ hạ. Không ngờ Bệ hạ lại nổi trận lôi đình. Người hạ lệnh đánh chết tất cả người hầu bên cạnh Triêu Dương, Triêu Dương khóc lịm cả người, vì quá sợ hãi mà ngã bệnh suốt mười ngày liền. Mà Bệ hạ cũng rất hối hận, người túc trực bên giường công chúa, cho đến khi công chúa khỏi hẳn mới thôi. Vì chuyện này mà Trần quý phi bị phế truất, nghe nói chính bà ấy đã xúi bẩy công chúa mặc xiêm áo của người Hồ. Lúc tôi đưa A Mục đến thăm Triêu Dương, bà bảo mẫu già nua thì thào kể cho chúng tôi nghe, Bệ hạ kỵ nhất việc có người trông giống Minh Đức Hoàng hậu. Trần quý phi xui công chúa mặc quần áo của người Hồ, tội thật đáng chết. A Mục quả là to gan, cậu ta gặng hỏi bà bảo mẫu “Vậy, A Hoàng có giống Minh Đức Hoàng hậu không? Phụng Hoàng là tên mụ của Triêu Dương, A Mục quen gọi là A Hoàng. Bà bảo mẫu ngẩn người một lúc, rồi lắc đầu nói “Không giống chút nào, vẻ ngoài của Minh Đức Hoàng hậu không giống công chúa.” Tôi thầm nghĩ, khó mà giống nhau được. Không biết con gái ngoại tộc có tướng mạo sẽ thế nào nhỉ? Bà bảo mẫu lại nói “Minh Đức Hoàng hậu có nước da trắng sáng, thân hình gầy, nhỏ, tuy không có nét mặt hoa da phấn như con gái Trung Nguyên nhưng rất hiếu động.” Nói đến đây, bà ấy chợt thở dài “Thoáng cái mà đã gần ba mươi năm, chẳng ngờ…” Bà ấy không nói tiếp, tôi thấy A Mục dường như đang trầm ngâm suy nghĩ gì đó. Đấy là lần đầu tiên Bệ hạ nổi giận với Triêu Dương, và cũng là lần cuối cùng. A Mục từng nói rằng, trên đời này, người duy nhất Bệ hạ thực sự yêu thương, chỉ có Triêu Dương. Sâu thẳm trong thâm tâm mình, tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng Triêu Dương đã qua đời sau đó… Từ lúc Triêu Dương qua đời, ngày qua ngày Bệ hạ càng chán chường việc triều chính, mà sức khỏe của người cũng dần suy yếu. Người không còn hứng thú với việc triều chính như không còn hứng thú với chính sinh mệnh của mình. Người không còn đi săn, không dự yến tiệc, thường xuyên nhốt mình trong điện, không uống rượu mà cũng chẳng sa vào thanh sắc, sức khỏe của người lại yếu dần theo thời gian. Dường như cái chết của Triêu Dương đã mang theo toàn bộ sức sống của người, chẳng những mái tóc người bạc phơ, đến cả trái tim cũng héo tàn. Tôi chưa thấy ai đau lòng đến như thế này. A Mục và tôi cũng rất đau buồn vì sự ra đi của Triêu Dương, song có vẻ nỗi đau buồn ấy không bằng một phần nhỏ của Bệ hạ. Đích thân cha vào cung khuyên giải Bệ hạ. Cha ốm yếu bấy lâu nay, bao năm chinh chiến đã khiến người mắc rất nhiều bệnh. Người còn đang ốm không gượng dậy nổi, song vẫn cố chấp đòi vào cung. Người nhà không can ngăn được, đành chuẩn bị xe đưa cha vào cung. Kẻ hầu người hạ trong điện đều lui ra ngoài, duy có tôi hầu cha quỳ trước mặt Bệ hạ, cảm giác cơ thể người đang run rẩy. Tôi không dám lỏng tay đỡ, tôi biết nếu mình lỏng tay, hẳn cha sẽ sụp xuống bất cứ lúc nào. Và tôi cũng biết mình nên lánh đi, nhưng cha suy nhược như thế này, tôi không đành lòng lui xuống. Cách Bệ hạ đối xử với cha tôi hơn hẳn những người khác, Bệ hạ đích thân đưa tay ra dìu cha dậy. Trong hơi thở hổn hển, người nắm chặt tay Bệ hạ, như thường ngày tôi vẫn nắm tay A Mục, nói – Bệ hạ, Thái tử phi đã tạ thế từ lâu rồi. Giọng cha run rẩy, nhưng những câu chữ thốt ra nhẹ bẫng, tôi gần như chẳng nghe thấy gì. Chỉ câu nói đó thôi đã khiến Bệ hạ thảng thốt, tôi thấy tóc người đã điểm hoa râm, cặp mắt đục ngầu, bàn tay đang cầm tay cha tôi run rẩy. Tự lúc nào, Bệ hạ đã trở thành ông già suy sụp đến mức này? Cha thở dốc, nói – Thái tử phi đã an giấc ngàn thu từ ba mươi năm trước rồi. Dường như mắt cha đã đong đầy nước mắt, người nói tiếp – Bệ hạ, xin người hãy tỉnh táo lại, Thái tử phi đã chết lâu rồi. Chưa bao giờ tôi thấy Bệ hạ mang vẻ mặt như lúc này, người luôn ôn tồn với cha, duy chỉ lúc này là cục cằn, khuôn mặt méo xẹo. Người níu chặt vạt áo cha, trên mu bàn tay vằn vện gân xanh, tiếng gầm gừ dữ tợn trở nên khàn đục – Ngươi nói láo! Cha tôi run rẩy, còn tôi không dám thở mạnh. Trong điện chỉ nghe thấy tiếng thở dồn dập từng hồi của cha. Giọng Bệ hạ dịu xuống, thậm chí người đã cười, nói – Bùi Chiếu, ngươi biết nàng ấy đang ở Tây Lương. Nàng ấy lừa chúng ta, chẳng lẽ thông minh như ngươi mà cũng mắc lừa nàng ấy? Cha vừa ho vừa thở hổn hển rồi cất tiếng gọi khẽ – Bệ hạ… Ánh mắt cha đau đáu, vô vọng. Tiếng người chẳng khá hơn – Công chúa Triêu Dương không phải do Thái tử phi thân sinh. Công chúa không hề giống Thái tử phi, trong lòng người hiểu rõ hơn ai hết. Công chúa do Hiền phi Lý Thị hạ sinh. Thái tử phi về trời đã ba mươi năm rồi… Mười mấy năm trước thần từng đến viếng thăm, cỏ đã phủ xanh trên mộ rồi… Đó là lần đầu tiên tôi thấy Bệ hạ khóc. Giọt nước mắt trào ra, nhỏ xuống ngực áo bào trong câm lặng. Ngực áo bào thêu họa tiết tinh xảo, giọt nước mắt loang loáng trên đầu rồng, chực rơi xuống. Cha tôi ôm gối của người, như xoa dịu, như an ủi, lại như cảm thông… Lúc ấy, Bệ hạ khóc nấc lên như một đứa trẻ… Hết
Phiên ngoại mới nhất của Đông cung Họa hàng mày như nét xuân sơn gồm 3 phần. Đây là phần thứ ba, cũng là phần cuối cùng. Phiên ngoại sau Nhất giá tường vi mãn viện hương sẽ nhắc đến con gái của Tiết Mộ Chiêu và Bùi Tam Lang, cùng với con trai của Lí Thừa Ngân A Mục x Thập Lục Nương. Sáng sớm, nội mệnh phụ đều đã được phát tơ ngũ sắc. Tiết Mộ Chiêu lúc dậy cũng đã buộc một đoạn tơ, vì tiến cung nên mới cởi xuống đeo kim xuyến. Lúc này nữ quan tên Tình Nương đưa nàng đi dọc theo hồ Thái Dịch, từ cửa sau bước vào một cái sân, bên trong đình đài tinh xảo. Ven hồ có một gian thuỷ tạ, trong hồ lá sen tầng tầng lớp lớp, thuỷ tạ ba mặt liễu rủ thấp thoáng, cực kỳ u tĩnh. Tiết Mộ Chiêu thích náo nhiệt, nên chẳng có hứng thú gì, chỉ thấy nơi này được cái mát mẻ mà thôi. Tình Nương buộc cho nàng một sợi tơ ngũ sắc, hai viên thái giám lại bưng lên mấy đĩa điểm tâm. Tình Nương bảo “Tiểu nương tử thích ăn cái gì thì ăn. Không cần câu nệ, nô tỳ trở về bẩm báo Hoàng Hậu rồi lại quay lại với tiểu nương tử.” Tiết Mộ Chiêu cũng không cảm thấy có gì không ổn, nàng ở nhà tự do tự tại quen, Tình Nương và các thái giám rời đi rồi, nàng liền bưng một đĩa điểm tâm, ngồi trên giường trúc. Bánh đậu xanh trong cung tinh tế hơn hẳn bên ngoài, một đỏ một xanh, uyên ương song sắc. Màu xanh lục là trộn với bột trà, màu đỏ làm từ mật hoa hồng. Tiết Mộ Chiêu ăn hai miếng bánh, uống một ly rượu hùng hoàng, chợt nghe bên ngoài chim hót líu lo. Nàng đẩy cửa sổ ra. Trên cây vốn có một con chim nhỏ màu xanh ngọc, vù một tiếng liền cất cánh bay xa. Bấy giờ nàng mới phát giác, chỗ liễu rủ ngoài cửa sổ có một chiếc thuyền đang đậu, phía dưới bắc ngang một đoạn trúc, người trên thuyền đắp nón tre lên mặt, tựa như đang ngủ yên. Ở nhà cũng có hồ, nên Tiết Mộ Chiêu biết đây là người quản hồ. Nàng hào hứng nhặt một viên đá nhỏ, ném vào mái che đầu thuyền. Chỉ thấy người nọ giật mình, rõ ràng đã tỉnh, lại không xốc nón tre lên. Tiết Mộ Chiêu bèn cầm một đĩa điểm tâm, cất tiếng “Người chèo thuyền, nếu ngươi đưa ta đi hái hoa hạnh trong hồ, ta sẽ chia bánh ngọt cho ngươi.” Người nọ nghe nàng nói như vậy, liền bỏ nón tre ngồi dậy, quay đầu lại nhìn. Một cái ngoảnh đầu, cả hai đều sửng sốt. Hóa ra y không phải ai khác, đúng là người chăn ngựa ngày ấy Tiết Mộ Chiêu gặp được. Tiết Mộ Chiêu còn nhớ rõ lần đó là chính mình uống say. Chỉ vì các cung nhân đều nói nàng gặp được hoa thần, lí do như thế nghe đỡ mất mặt hơn bao nhiêu, cho nên Tiết Mộ Chiêu mới tuyệt không đề cập tới sự việc ở chuồng ngựa, chỉ vờ như bản thân thực sự gặp hoa thần. Trăm triệu không nghĩ tới, hôm nay còn có thể gặp lại y. Người nọ ước chừng cũng trăm triệu không nghĩ tới sẽ gặp lại, cho nên cũng ngây ngẩn cả người. Tiết Mộ Chiêu thật ra rất hào phóng, nàng hào hứng hỏi “Hóa ra là ngươi, ngươi bị điều tới cai quản hồ này sao?” Người nọ đồng thanh “Ngươi bị điều tới nơi này làm việc sao?” Xem ra nhân dịp Tết, người này mặc một thân la y, tuy rằng không có thêu thùa, nguyên liệu lại là thượng đẳng. Tiết Mộ Chiêu vừa mới nhìn thấy cung nhân bên cạnh Hoàng Hậu nương nương đều có quần áo mới, nên cũng không lấy làm lạ. Nàng nói “Phải, hôm nay Hoàng Hậu ban yến, không đủ người nên mới phái ta đến đây làm việc.” Lại hỏi “Ngươi không phải ở chuồng ngựa sao, sao lại ở chỗ này?” Người nọ nói “Bệ hạ ở đằng trước ban yến cho quần thần, không đủ người nên mới phái ta đến đây.” Tiết Mộ Chiêu lại hỏi “Ngươi đã ăn cơm chưa?” Người nọ lắc đầu, thuyền đã thuận chiều gió mà chậm rãi trôi, lúc này đã gần tới cửa sổ, Tiết Mộ Chiêu đứng ngay chiều gió liền ngửi được mùi rượu nhàn nhạt trên người hắn. Nàng liền mang bánh ngọt đem ra ngoài cửa sổ, nói “Bụng rỗng uống rượu có hại cho thân thể, cái này cho ngươi.” Người nọ ngẩn ra một chút, thấy nàng duỗi tay giơ đĩa, vẻ mặt chân thành, liền nhận lấy, tiện tay đặt bánh ở đầu thuyền. Tiết Mộ Chiêu thấy hắn không ăn bánh, liền dứt khoát dịch góc váy, nhảy qua cửa sổ, người nọ vừa mới giật mình kinh hãi, nàng đã nhảy xong, ngay ngắn đứng ở đầu thuyền. Chỉ là thân thuyền tròng trành, nàng kêu lên một tiếng, suýt thì không đứng vững, người nọ đành phải duỗi tay kéo nàng lên, cách một ống tay áo mà kéo, mới cứu nàng khỏi rơi xuống nước. Thấy nàng ổn định rồi lập tức buông tay, có thể thấy là người quân tử không chiếm lợi từ cô nương nhà người khác. Tiết Mộ Chiêu nhân thể khom gối ngồi ở đầu thuyền, tự cầm bánh, nói với hắn “Bánh này là nương nương ban cho đấy, ăn rất ngon, ngươi có muốn nếm thử không, ta đảm bảo ngươi sẽ thích.” Người nọ lắc đầu. Tiết Mộ Chiêu nói “Vết thương lần trước của ngươi giờ đã đỡ chưa?” Người nọ nói “Đã tốt lên rồi.” Tiết Mộ Chiêu không khỏi thở dài, nói “Ngươi và thê tử không được gặp nhau, trong lòng nhất định rất khổ sở.” Người nọ không nghĩ tới nàng chợt nói thế, không khỏi quay mặt đi, tuy rằng động tác cực nhanh, nhưng Tiết Mộ Chiêu vẫn thoáng nhìn thấy gương mặt hắn ảm đạm buồn bã, khóe miệng hơi mím xuống, hiển nhiên không muốn đề cập tới việc này nữa. Tiết Mộ Chiêu chính mình cũng có tâm sự, thấy hắn như thế, nàng liền ngơ ngẩn nhìn hồ nước, từng đàn cá xanh xanh đỏ đỏ nối đuôi, liễu xanh như khói, yên ba đẹp đẽ vô ngần. Chỉ là hồ Thái Dịch rộng như vậy lại tịch liêu không một bóng người, dường như giữa đất trời chỉ còn lại chiếc thuyền này một mình một chỗ. Khối điểm tâm trong tay bất tri bất giác đã bị nắm chặt đến nát vụn, từng mảnh rơi xuống hồ, khiến cho cá không ngừng nổi lên mặt nước kiếm ăn. Tiết Mộ Chiêu nói “Kỳ thật ta lừa ngươi, ta không phải cung nhân, ta là Tiết gia tiểu cô nương, Hoàng Hậu nương nương triệu ta tiến cung là vì muốn ta gả cho bệ hạ.” Người nọ nghe nói vậy, quay đầu lại nhìn nàng một cái, trong mắt tràn đầy kinh ngạc. Tiết Mộ Chiêu miễn cưỡng cười nói “Hoàng Hậu là biểu tỷ của ta, bệ hạ là tỷ phu của ta, sao ta có thể nhân lúc biểu tỷ bệnh nặng gả cho tỷ phu được? Cho dù tỷ ấy rộng lượng, cảm thấy như vậy rất tốt, ta cũng thấy như vậy không tốt chút nào. Nếu trong lòng tỷ ấy có bệ hạ, thì không nên làm chuyện như vậy.” Những lời này nàng đã nghĩ đi nghĩ lại rất nhiều lần, chỉ là không thể nói cho phụ mẫu, càng không thể nói với Hoàng Hậu, khuê phòng tuy cũng có bạn thân, nhưng cũng không thể nói ra được. Nàng cũng chưa từng nghĩ sẽ có ngày ở giữa hồ Thái Dịch, thổ lộ chuyện này với một người chèo thuyền xa lạ. Có lẽ là hai lần tình cờ gặp gỡ, coi như có duyên, cũng có thể bởi vì nàng biết nỗi buồn khổ trong lòng hắn còn đau đớn hơn chính mình. Nói những việc này với một người còn buồn khổ hơn mình, có lẽ sẽ cảm thấy cũng không buồn đến vậy. “Huống chi, ta cũng không có tình cảm với bệ hạ chút nào, người ta thích là Bùi gia Tam Lang.” Người nọ nghe nàng nói như thế, chẳng buồn khuyên giải hay an ủi, ngược lại hỏi “Tuy ngươi thích Bùi Tam Lang đấy, nhưng ngươi có chắc Bùi Tam Lang cũng thích ngươi không?” Tiết Mộ Chiêu nói “Thế thì phải tìm cách hỏi xem. Nếu hắn cũng thích ta, ta và hắn sẽ cùng nhau bỏ trốn.” Người nọ nói “Hoàng Hậu đã có ý này, nay ngươi lại đào hôn, chẳng lẽ ngươi không sợ bệ hạ giận dữ chém đầu ngươi?” Tiết Mộ Chiêu quả nhiên thấp thỏm lo lắng “Liệu bệ hạ có chém đầu Bùi Tam Lang không?” “Có lẽ không.” Người nọ nói “Ta nghe nói Bùi Tam Lang là tướng tài hiếm có, bệ hạ khẳng định sẽ không bởi vì chuyện này mà giết hắn. Nhưng ngươi thì khó nói, chưa biết chừng bệ hạ sẽ giận chó đánh mèo với ngươi.” Tiết Mộ Chiêu nói “Nếu bệ hạ không giết Bùi Tam Lang, tại sao còn muốn giết ta?” Người nọ nói “Ngươi làm mất mặt Hoàng Hậu, còn làm mất mặt bệ hạ, ngươi luôn miệng nói không thích bệ hạ, còn cùng nam tử khác bỏ trốn, lấy tính tình như bệ hạ, làm sao khoan thứ được chuyện này?” Tiết Mộ Chiêu nhớ tới lời đồn bên ngoài, hoàng đế là kẻ hỉ nộ vô thường, không khỏi gật gật đầu “Thiên tử giận dữ là đương nhiên.” Nhưng nàng căn bản không để bụng “Dù sao chém đầu xong ta vẫn thích Bùi Tam Lang, bệ hạ muốn giết muốn xẻo tùy ý.” Người nọ thấy nàng cứng miệng như thế, bèn cười cười “Tiểu cô nương như ngươi đã từng chứng kiến lửa giận của người khác bao giờ. Chỉ sợ đến lúc đó ngươi khóc hết nước mắt, quỳ xuống đất xin tha còn chẳng kịp.” Tiết Mộ Chiêu bị hắn kích bác, không khỏi giận dữ, nói “Phụ thân ta là Lỗ Quốc công, Hà Đông Tiết thị, mẫu thân của ta là con gái của Đức Thiện huyện chủ, đến từ Phạm Dương Lư thị, ca ca ta là Vân Huy tướng quân, đi theo bệ hạ chinh chiến lâu nay, ta tuy chỉ là một tiểu cô nương, nhưng nếu bệ hạ muốn chém đầu ta, ta sẽ một tiếng cũng không rên, càng không thèm xin tha.” Người nọ nghe nàng như vậy nói, thật lâu sau cũng không có lên tiếng, qua rất lâu sau, bỗng nhiên nói “Ta là con trai của một người buôn chè.” Tiết Mộ Chiêu không hiểu. Người nọ thấp thoáng ý cười, lại nói “Lần đầu tiên ta gặp nương tử của ta, nàng cũng tự kể nhà cửa thân thế như vậy. Ta liền nói với nàng, ta là con trai của một người buôn chè.” Mấy lần hắn nhắc tới thê tử, trên mặt đều ngập tràn phiền muộn, chỉ có lúc này đây, tựa như nhớ tới chuyện gì thú vị, chút phiền muộn này mới có một tia ngọt ngào xen lẫn. Hắn cầm một khối điểm tâm, nói rằng “Bánh này cũng là món nương tử ta thích nhất, mỗi năm tới Đoan Ngọ, nàng đều muốn ăn trộm một đĩa. Ăn nhiều quá, lần nào cũng phải uống trà tiêu thực. Nàng thích nhất loại bánh làm từ mật hoa hồng, thực ra mỗi lần nàng ăn ta đều biết, nhưng lần nào cũng làm như không biết.” Tiết Mộ Chiêu hỏi “Tại sao ngươi phải làm như không biết?” “Lúc ấy cho rằng tương lai còn dài, cho rằng một ngày nào đó có thể nói với nàng, ta cùng nàng ăn bánh, chỉ là nàng đừng ăn nhiều quá.” Hắn dõi mắt nhìn mặt hồ, sóng nước mênh mông, trời đất rộng lớn, hóa ra thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền, những câu này rốt cuộc chưa bao giờ được nói ra lời. Hắn dùng ngón tay chấm mặt nước, từng đường nét vô tình hữu ý phác họa lên ở tấm gỗ đầu thuyền. “Có một lần ăn bánh tro, ta cố ý bảo người tặng không lột vỏ, nàng quả nhiên tưởng phải ăn cả vỏ, gặm một lúc lâu suýt nữa còn cứa phải miệng. Ta cười rất lâu, nàng cực kỳ cực kỳ tức giận, chạy tới cãi nhau với ta, ném bánh tro lên án thư của ta, thật ra ta cứ nghĩ, về sau sẽ còn có cơ hội, tự tay lột bánh tro cho nàng ăn, bồi tội với nàng.” Tiết Mộ Chiêu hỏi “Sao ngươi cứ thích chọc ghẹo nàng như vậy, nếu ngươi đã thích nàng, còn cưới nàng làm vợ, đối xử tốt với nàng một chút không được sao?” Người nọ cười cười, nói “Khi đó còn quá trẻ, không biết vì sao luôn muốn trêu chọc nàng, mỗi lần nàng tức giận chạy tới, ta đều rất vui, tưởng như đắc ý, thật ra bởi vì hiếm khi có thể bắt nàng quang minh chính đại tới tìm ta, cùng ta nói chuyện được. Chỉ là lúc ấy ta không hiểu được mà thôi.” Tiết Mộ Chiêu không khỏi thở dài, thương cảm nói “Ngươi thật khờ.” Người nọ gật gật đầu, nói, đúng vậy. Hắn ngừng tay, Tiết Mộ Chiêu thấy đầu thuyền đã họa ra một người, chính là một tiểu cô nương, tay cầm bánh tro, mặt mày ngây thơ, hai mắt có chút tức giận, khóc cười đều động lòng người. Tiết Mộ Chiêu hỏi “Đây là nương tử của ngươi sao? Nàng thật xinh đẹp.” Người nọ gật gật đầu, nói “Trên đời không ai đẹp bằng nàng.” Tiết Mộ Chiêu thầm nghĩ, dù người ta thường nói tình nhân trong mắt hóa Tây Thi, nhưng ở trong lòng hắn, đương nhiên sẽ tự đáy lòng cảm thấy nương tử nhà mình đẹp nhất, Tây Thi gì đó chắc cũng không bằng. Một cơn gió thổi qua, trong hồ lá sen tung bay, hoa hạnh rơi lả tả, trong gió có cả hương thơm trong trẻo, từ nơi xa vọng lại tiếng nhạc tinh tang, hẳn là ở chỗ bệ hạ ban yến đang náo nhiệt đến cực độ. Tiểu cô nương trên ván gỗ lại phai nhạt từng chút một, mặt mày thiếu nữ dần dần biến mất, vệt nước từng chút từng chút mờ đi, gió thổi làm mặt hồ gợn sóng xanh, vệt nước trên thuyền gần như tiêu tán đến không còn, rốt cuộc không còn một dấu vết gì nữa. Bức họa vừa rồi, dường như chỉ là một giấc mộng say. Người nọ ngơ ngẩn nhìn tấm gỗ, vươn tay ra rồi lại chần chừ, dường như sợ vệt nước nhợt nhạt cuối cùng trên đó sẽ biến mất trong tay hắn. Tiết Mộ Chiêu không khỏi nói “Ngộ nhỡ, ngộ nhỡ nếu Bùi Tam Lang không thích ta, ta đành phải đi làm Hoàng Hậu, lúc đó ta sẽ có thể thả ngươi đi, cho ngươi xuất cung, đoàn tụ cùng nương tử nhà mình.” Người nọ nghe nàng nói như vậy, khẽ cười “Tiểu cô nương thiện tâm như ngươi, Bùi Tam Lang chắc chắn sẽ thích.” Tiết Mộ Chiêu lại có chút buồn bã “Ta không làm Hoàng Hậu, vậy còn ngươi? Hoàng Hậu là biểu tỷ của ta, hay là ta đi cầu tỷ ấy thả ngươi xuất cung?” Người nọ lắc lắc đầu, nói “Không cần, ta xuất cung cũng là vô ích, nương tử của ta tức giận trở về nhà mẹ đẻ rồi, nàng sẽ không gặp ta.” Tiết Mộ Chiêu nói “Ngươi xem, đều tại ngươi lúc nào cũng trêu chọc nàng, rốt cuộc cũng khiến nàng tức giận đúng không?” Người nọ nhàn nhạt nói, đúng vậy, là ta gieo gió gặt bão. Tiết Mộ Chiêu nói “Nếu ngươi đã biết sai rồi, vậy phải đi dỗ nàng cho tốt, nhất địch phải dỗ nàng trở về đó.” Người nọ đang định nói thêm, bỗng nhiên trên bờ truyền đến tiếng nói ồn ào, tựa hồ rất nhiều người đang đi tới, Tiết Mộ Chiêu sợ Hoàng Hậu sai người đến, vội vàng nhấc váy, duỗi chân nhảy qua bệ cửa sổ. Quả nhiên, nàng vừa mới đứng vững chân, liền nghe thấy bên ngoài thuỷ tạ có người gọi tên mình “Cửu cô nương? Cửu cô nương?” Tiết Mộ Chiêu đáp lại một tiếng, xoay người nhìn ra cửa sổ, chỉ thấy người nọ cầm thanh trúc, thuyền nhỏ liền đi về phía liễu rủ, hắn đội nón tre, rẽ liễu mà đi. Một lát sau, cánh liễu buông xuống như ngàn vạn dải lụa xanh đỏ, làm thành một bức màn che, thuyền nhỏ kia đã đi đến chỗ nước sâu, không thấy tăm tích đâu nữa. Tiết Mộ Chiêu ghi nhớ trong lòng, một mực muốn thành toàn cho hắn về với nương tử, cho nên buổi chiều ở trước mặt Hoàng Hậu cũng có chút thấp thỏm không yên. Hoàng Hậu lại có vẻ rất vui, vẻ đau yếu bệnh tật cũng tốt lên mấy phần. Đến lúc hoàng hôn, chúng mệnh phụ mới cáo lui, không ngờ bệ hạ lại sai người tới, thì thầm mấy câu bên tai Hoàng Hậu. Hoàng Hậu rõ ràng lắp bắp kinh hãi, sắc mặt tái nhợt tức khắc, nhưng vẫn miễn cưỡng gật đầu. Tiết Mộ Chiêu hoàn toàn không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng đợi tới lúc nàng cáo từ, Hoàng Hậu lại cử Bùi gia Tam Lang đưa tiễn, dặn rằng “Đệ tử thế gia đều dự yến ở phía trước cùng với bệ hạ, bệ hạ lại nhớ tới chư vị phu nhân vào cung, cho nên cố ý để bọn họ tới tiễn.” Hộ tống các phu nhân đều là con cháu trong nhà, không ngờ Hoàng Hậu lại chỉ định Bùi Tam Lang tiễn Tiết Mộ Chiêu. Mấy năm sau, lại đến tết Đoan Ngọ, Tiết Mộ Chiêu bấy giờ đã được gả cho Bùi gia Tam Lang như ước nguyện bấy lâu. Sau ba năm quốc tang Hoàng hậu, đây mới là cái tết Đoan Ngọ đầu tiên. Trong cung ban yến, Bùi Tam Lang muốn tới dự, Tiết Mộ Chiêu chợt nhớ tới chuyện xưa, vội nói với trượng phu xin bệ hạ một nguyện cầu, thả một người chèo thuyền xuất cung. Nhưng nghĩ tới nghĩ lui, lại chưa từng biết tên họ người này, cho nên không biết nói ra miệng thế nào. Bùi lang thấy dáng vẻ nàng, chỉ cho là lo lắng, liền an ủi “Thực ra bệ hạ đối xử với người khác hiền hòa lắm, nàng đừng nghe người bên ngoài nói bậy. Lại nói, từ tết Đoan Ngọ ban yến mấy năm nay, bệ hạ đều chỉ uống vài chén rượu, để cho quần thần thưởng yến, còn hắn lánh đi. Chúng ta cũng thật tự do tự tại, chẳng phải câu nệ điều gì.” Tiết Mộ Chiêu biết lang quân quan tâm mình nên mới lựa lời trấn an, không khỏi nhoẻn miệng cười. Chỉ là nhớ tới ngày ấy người chèo thuyền ngón tay chấm nước, vẽ ra một tiểu cô nương xinh đẹp đáng yêu, bảo sao hắn vẫn cứ canh cánh trong lòng như vậy. Hắn ở trong thâm cung, không biết đến khi nào mới có cơ hội ra ngoài, đi dỗ nương tử nhà mình hồi tâm chuyển ý. Tiết Mộ Chiêu thầm nghĩ, ngày ấy nếu nhớ hỏi hắn một câu để biết tên thì đã tốt rồi. Hắn là con trai của một người buôn chè, lại vẽ rất đẹp. Đặc biệt là vẽ nương tử của hắn, sinh động như thật, chắc là trong lòng đã phác họa trăm ngàn lần mới nhớ rõ đến mức này. Họa mi mục người như nét xuân sơn, ước định trăm năm đồng tâm kết. Cũng may, việc ở trong cung có thời hạn, rồi sẽ có ngày hắn được thả ra, nàng nghĩ, hắn nhất định có thể gặp nương tử của mình, cùng nàng bạch đầu giai lão.
Phiên ngoại mới nhất của Đông cung Họa hàng mày như nét xuân sơn gồm 3 phần. Đây là phần thứ nhất. Gần đến Đoan Ngọ, ấn theo lệ cũ trong cung ban xuống nào là băng phiến, bánh tro, nào là túi thơm, rượu hùng hoàng. Đều chỉ là mấy thứ đồ lặt vặt cho lễ tiết, nhưng các thức trong cung tinh xảo đẹp đẽ, nhà phú quý bình thường sao có thể sánh bằng. Ngoài ra còn có hai hộp trầm thủy hương tốt nhất ban cho đích danh Lỗ Quốc công phu nhân. Lỗ Quốc công vội tới bàn bạc với thê tử “Nương tử hẳn là đã có quyết định trong lòng.” Phu nhân thở dài “Ngày mai thiếp tiến cung tạ ơn, cứ để Cửu nương ở nhà đi.” Lỗ Quốc phu nhân Lư thị là người cực kỳ tôn quý. Ngoại tổ mẫu là An Bình Đại Trưởng công chúa, mẫu thân là Đức Thiện huyện chủ, phụ thân thuộc Phạm Dương Lư thị, cháu gái bên ngoại đang là trung cung Hoàng Hậu, trưởng tử đã làm tới chức Vân Huy tướng quân. Nhắc đến Vân Huy tướng quân, ấy vốn dĩ chỉ là một chức quan nhàn tản, mà tới lượt Tiết Dung, công tử đi theo hoàng đế ngự giá thân chinh, lập bao quân công chiến tích, liền biến vị trí Vân Huy tướng quân này trở nên không thể xem thường. Lỗ Quốc công phu nhân có thể xem như cả đời trôi chảy, nhà mẹ đẻ phú quý viên mãn, nhà chồng lại là huân quý thế gia, nhi tử giỏi giang hiếu thuận. Hoàng hậu nương nương từng có lần chuyện gẫu với các nội mệnh phụ rằng, Lỗ Quốc phu nhân quả thực là một vị phu nhân thập toàn thập quý. Nhưng Lỗ Quốc phu nhân gần đây có chút tâm sự. Nào phải chuyện gì xa xôi, chính là việc trung cung Hoàng Hậu thân mình không khỏe. Lúc Hoàng Hậu còn là Thái Tử Phi, sinh hai con trai đều chẳng may chết yểu. Nàng ở cữ lưu lại mầm bệnh, từ đó trở đi sức khỏe vẫn luôn không tốt. Sau lại đến chuyện tiên đế băng hà, trung cung bỏ trống, hậu cung không có chủ nhân, tang sự đều do Thái Tử Phi lo liệu. Xử lý xong đại sự này, nàng cũng ốm nặng một trận. Lễ sắc phong Hoàng Hậu phải dời đến khi đỡ bệnh mới cử hành. Từ lúc làm Hoàng Hậu, sự vụ trong cung phức tạp, có cố thế nào cũng chẳng thể nghỉ ngơi cho ổn thỏa, rốt cuộc vẫn là càng ngày càng suy yếu. Nhất là năm nay, tới đại điển nguyên thần, Hoàng Hậu đã bệnh đến không chịu nổi, đành phải miễn triều bái của các vị nội ngoại mệnh phụ phu nhân. Lỗ Quốc công phu nhân là cô ruột của hoàng hậu, lo lắng cho bệnh tình cháu gái, bèn theo tẩu tẩu là Thừa Ân công phu nhân, thân sinh của Hoàng Hậu vào cung thăm hỏi. Lúc trở về, bà nói riêng với Lỗ Quốc công rằng “Ta thấy nương nương như vậy thật không ổn, đã gầy đến không nhận ra nổi nữa rồi.” Bấy giờ Hoàng Hậu từng cảm thán “Ngày ta còn ở phủ, các chị em luôn cùng một chỗ chơi đùa. Tới lúc làm Thái Tử Phi, chúng tỷ muội vẫn thường lui tới. Chỉ là từ khi làm Hoàng hậu mới không thể gặp được nữa. Cũng chẳng còn biết có thể gặp lại được mấy lần.” Hoàng Hậu nói thế, Thừa Ân công phu nhân liền không kìm được nước mắt. Tiết Thượng Tị, bệnh tình Hoàng Hậu chuyển biến tốt một chút, nàng mới triệu di mẫu là Tằng quốc phu nhân, cô mẫu là Lỗ Quốc phu nhân, Trần Quốc phu nhân, còn có một vị di mẫu nữa là Yến Quốc phu nhân, mỗi người mang theo nữ nhi cùng tiến cung. Phụ thân hoàng hậu là trưởng tử, nàng lại là trưởng nữ, cho nên trong các chị em nàng lớn hơn bọn họ đến mấy tuổi. Hơn nữa thân phận Hoàng Hậu tự có uy nghi, mà các thiếu nữ kia đều là tiểu thư khuê các còn ít tuổi, lần đầu nhập cung khó tránh khỏi câu nệ. Hoàng Hậu liền cười nói “Hiếm khi có dịp, mẫu đơn trong cung đã nở cả rồi, thời tiết lại đẹp, không bằng đưa các nàng đi ngắm hoa đi.” Nữ quan bên cạnh liền vâng mệnh đưa các tiểu cô nương đi Trầm Hương Đình. Bên trong vườn thượng uyển, mẫu đơn và thược dược đang nở rộ, cảnh xuân rực rỡ không gì sánh kịp. Nhóm biểu muội của Hoàng Hậu tuy là xuất thân danh môn, cũng chưa từng thấy cảnh trăm hoa đua nở đẹp đẽ đến thế. Đình Trầm Hương muôn hồng nghìn tía, vô hạn phong quang. Như càng đối lập thêm với cung thất cách đó không xa, vẫn một vẻ huy hoàng tráng lệ, nhưng lại ảm đạm chẳng có chút sắc màu tươi sáng. Một nhóm thiếu nữ trẻ trung mỹ mạo du ngoạn giữa hoa, hoa đẹp cũng chẳng lại người, mới thật là thanh xuân tươi đẹp. Hoàng Hậu ở trong trướng gấm, trông thấy liền khẽ mỉm cười. Đúng lúc đó, một viên thái giám lặng lẽ tới báo “ Hôm nay bệ hạ vốn định tới thăm Hoàng Hậu, nhưng Người nghe nói mấy vị phu nhân đều ở chỗ này, mới dặn rằng hiếm khi nữ quyến tới thăm, để cho Hoàng Hậu thoải mái hàn huyên với ngoại thất, Bệ hạ xuất cung đánh cúc với Nhữ Dương vương rồi.” Hoàng Hậu nghe vậy không khỏi có chút thất vọng. Lỗ Quốc phu nhân từ lâu đã đoán được vài phần dụng ý của Hoàng Hậu, nhưng bà cũng chẳng có tham cầu gì với chuyện này. Nhà ngoại nhà chồng đều đã cực kỳ phú quý, bà đâu còn gì phải lo nghĩ. Hoàng đế tuy còn trẻ nhưng chỉ một lòng với chính sự, lạnh nhạt ái tình. Cho nên cái ghế Hoàng Hậu tuy rằng vinh quang tột độ đấy, cũng chẳng bì được với con gái duy nhất của bà đâu. Năm nay nó mới mười lăm tuổi, ngây thơ non nớt, Lỗ Quốc phu nhân quả thực không nỡ. Năm xưa Hoàng Hậu lúc còn ở trong phủ, còn không phải là một tiểu thư cao quý yêu kiều hay sao. Nhưng rồi vào Đông Cung làm Thái Tử Phi, rồi trở thành trung cung Hoàng Hậu, mấy năm nay mọi chuyện xử lý chu toàn, cũng đã kiệt quệ cả thể xác lẫn tâm thần, bệnh đã vào cốt tủy, Lỗ Quốc phu nhân đều thấy cả. Nào có phải cứ gả cho Đế vương là tốt đâu, Lỗ Quốc phu nhân thầm ngẫm nghĩ. Hoàng Hậu mới chỉ gọi một nhóm biểu muội tiến cung, dụng ý còn chưa tỏ rõ, hoàng đế đã bày ra thái độ này, cũng đành phải từ bỏ. Hoàng Hậu xốc lại tinh thần, nhìn các biểu muội vui đùa ầm ĩ giữa hoa viên, giữa các cô nương ngây thơ khả ái, chỉ có A Duyên đã đến tuổi cập kê, cho nên cử chỉ hành động mới khác biệt. Người khác nói cười ồn ã, chỉ có nàng ở một bên chăm sóc hai biểu muội nhỏ tuổi nhất. Hoàng hậu mới nói với Tằng Quốc phu nhân rằng “Trong các muội muội, xem ra A Duyên vừa xinh đẹp mà tính tình lại dịu dàng dễ gần.” A Duyên là trưởng nữ của Tằng Quốc phu nhân, Tằng Quốc phu nhân còn muốn trong nhà có một vị Hoàng Hậu, lúc này thấy Hoàng Hậu khen, liền cười nói “A Duyên còn kém cỏi thế nhưng biết chăm sóc bọn muội muội, ấy là chỗ tốt của trưởng tỷ.” Một câu cố ý lấy lòng Hoàng Hậu, bởi Hoàng Hậu cũng là trưởng nữ. Hoàng Hậu chẳng qua mới chỉ hơi gật đầu, mà Yến Quốc phu nhân vốn có chỗ không vừa ý với Tằng Quốc phu nhân, lúc này vội chen lời “A Duyên tất nhiên cũng rất tốt, nhưng thật lòng mà nói, trong số các cô nương, chỉ có A Chiêu mới khiến người ta yêu thích nhất.” Lỗ Quốc phu nhân cười đáp “Mọi người lại không phải không biết, con bé từ nhỏ đã dám bốc ngói rồi, còn ai bướng bỉnh hơn nó. Cái gì mà khiến người yêu thích, thật ra là khiến người khác phiền não thì có.” Lỗ Quốc phu nhân vừa dứt lời, Hoàng Hậu cũng cười rộ lên. Tiết gia tiểu cô nương, nhũ danh A Chiêu, vốn dĩ rất nổi tiếng. Chính là bởi khi cô bé năm sáu tuổi, phủ Lỗ Quốc công dọn dẹp hoa viên, nhiều người ra vào hỗn tạp, gia nhân sợ kẻ lạ vào mới cố ý thả chó dữ trong vườn. Nào ngờ mấy vị tiểu lang quân Tiết gia nghịch ngợm hẹn nhau lẻn vào hoa viên. Lập tức bị mấy con chó dữ truy đuổi suýt nữa bị cắn, may mà cô bé nhanh trí leo thang lên mái, bốc từng mảnh ngói ném cho chó dữ liên tục lùi về sau, vừa đuổi chó, vừa hô lớn gọi các anh nhanh chạy đến phía cây thang, để trốn lên nóc nhà chó không cắn được. Cứu được mấy vị ca ca, tiểu cô nương này xem ra vừa lanh lợi vừa dũng cảm. Hoàng Hậu thoạt nghĩ đến, không khỏi hỏi rằng “Khi nãy mới thấy A Chiêu hành lễ, bộ dáng thật quy quy củ củ lắm, nào còn dáng vẻ bướng bỉnh đâu?” Lỗ Quốc phu nhân cười nói “Trước mặt nương nương, bướng bỉnh thì bướng bỉnh, chút lễ nghĩa này vẫn phải có.” Hoàng Hậu nói “Lúc đó đông người, cũng chưa kịp cùng nàng nói mấy câu.” Nữ quan bên cạnh Hoàng Hậu đều cực kỳ tinh ý, thấy vậy liền cười nói “Để nô tỳ đi mời Cửu cô nương tới nói chuyện cùng Hoàng Hậu.” A Chiêu tiểu cô nương ở Tiết gia đứng hàng thứ chín, cho nên nữ quan mới gọi một tiếng Cửu cô nương. Thấy Hoàng Hậu gật đầu, nữ quan liền lui xuống, giữa các thiếu nữ xinh đẹp động lòng người, áo lụa quần là, người bên hoa càng thêm rực rỡ, chỉ là nhìn tới nhìn lui, vẫn không thấy Tiết gia Tiểu Cửu nương. Nói đến Cửu cô nương Tiết gia, tuy là lần đầu tiên vào cung, nhưng cũng không cảm thấy hồi hộp. Phụ thân Hoàng Hậu là cậu ruột của nàng, cho nên nàng phải gọi Hoàng Hậu một tiếng biểu tỷ. Trước kia Hoàng Hậu còn làm Thái Tử Phi cũng thường gọi nàng vào Đông Cung chơi đùa. Lúc đó nàng còn nhỏ lắm, trong nhà chỉ có các anh trai, cho nên biểu tỷ trong lòng nàng rất là thân thiết. Chẳng qua về sau Thái Tử kế vị, biểu tỷ trở thành Hoàng Hậu, nàng là tiểu cô nương không phải cáo mệnh, cho nên không thể tiến cung nữa. Lần này Hoàng Hậu phá lệ triệu các nàng tiến cung, mẫu thân của nàng Lỗ Quốc phu nhân đã dặn đi dặn lại, trong cung không thể so nơi khác, nương nương thân phận tôn quý, ngàn vạn lần không được thất lễ. Lễ Thượng Tị như vậy, lại phải tiêu tốn một ngày trong cung, Cửu cô nương không mấy vui vẻ. Phải biết rằng từ lâu nàng đã nghe nói Tết Thượng Tị bên bờ Khúc Giang là nơi náo nhiệt phồn hoa bậc nhất. Chẳng qua trước kia các ca ca không chịu đưa nàng đi, chỉ nói chờ khi nào lớn sẽ dẫn đi chơi, lần này khó khăn lắm mới dốc hết công phu năn nỉ các ca ca đồng ý. Ai ngờ ý chỉ từ trong cung truyền đến, triệu nàng theo mẫu thân tới bái kiến Hoàng Hậu. Đi gặp Hoàng Hậu biểu tỷ tất nhiên cũng là một chuyện rất vui vẻ, nhưng nàng không biết Hoàng Hậu còn ban yến lưu mọi người lại dùng cơm, còn bảo các nàng du ngoạn trong vườn thượng uyển. Trong vườn tuy rằng có mẫu đơn nở rộ, Cửu cô nương lại nhớ Khúc Giang náo nhiệt. Mới ngắm mẫu đơn được một lát, Cửu cô nương nghe nói trong cung có lầu Thanh Phong, từ đó có thể thấy được Khúc Giang, Cửu cô nương liền thay quần áo, lặng lẽ trốn ra khỏi chỗ ngắm hoa, đi về phía lầu Thanh Phong. Cửu cô nương nghe nói tới lầu Thanh Phong, lại không biết vườn thượng uyển quanh co, thật nhiều lối rẽ, nàng đi được một lát liền mất phương hướng lạc đường. Trong ngự uyển chẳng bóng người qua lại, muốn tìm một ai hỏi đường cũng không xong, Cửu cô nương đi rồi cũng không tìm thấy đường trở về. Nhưng từ nhỏ nàng đã to gan, nhìn lối rẽ, liền tùy ý bước vào một hướng. Đi được khoảng hai nén hương, phía trước có một bức tường, loáng thoáng như có tiếng nói chuyện, Cửu cô nương không khỏi nhẹ lòng, thầm nghĩ có người để hỏi đường là tốt rồi. Nàng đi dọc theo bờ tường thật lâu cũng không thấy cửa, vừa mệt vừa khát, lấy tay lau mồ hôi, ngẩng đầu nhìn đại thụ càng lá tốt tươi, không khỏi suy tư. Cửu cô nương từ nhỏ đã thuần thục công phu lên nóc nhà dỡ ngói, chỉ là hôm nay tiến cung khó tránh khỏi trâm vàng khuyên ngọc, chân trước vừa bắc lên cây, trang sức trên đầu liền mắc. Nàng suy nghĩ một thoáng liền cởi dải lụa xuống, tháo hết trâm cài trang sức, gói trong khăn choàng, đặt lại vào nhánh cây. Dịch góc váy về bên hông, lại trèo lên trên, quả nhiên nhanh nhẹn hơn nhiều. Lên đến ngọn cây mới thấy, bên kia tường là một chuồng ngựa. Cái cây nàng chọn vừa khéo, bởi vì bên kia vừa hay có hai chồng lương thảo. Cửu cô nương nhẹ nhàng băng qua đầu tường, lấy chân dò, liền hạ xuống đỉnh đống cỏ khô. Nàng chậm rãi từ trượt từ đỉnh đống lương thảo xuống, lảo đảo một cái đứng không vững, một hồi mới ổn định bước chân, chợt nghe tiếng nói “Ngươi xem ngươi tranh cường háo thắng, suýt nữa thì ngã rồi.” Cửu cô nương không phục, đang định mỉa mai đáp lại, lại không thấy một bóng người. Nàng trông trái ngó phải, hóa ra trong viện buộc một con ngựa màu tím, cực kỳ đẹp đẽ, ước chừng so với nàng còn cao hơn nửa cái đầu. Nhìn một lúc lâu mới thấy một vạt xiêm y dưới bụng ngựa, thấp xuống chút nữa là một đôi giày da trâu. Nguyên lai người nói chuyện ban nãy bị khuất bởi con ngựa, nàng vòng qua đầu nó, chỉ thấy một kẻ đang cúi người cầm bàn chải chải lông ngựa, vừa làm vừa nói “Ngươi tuổi cũng không nhỏ nữa, ăn muối còn nhiều hơn mấy con ngựa kia ăn cỏ, cần gì phải chấp nhặt với bọn nó.” Hóa ra là y nói chuyện với ngựa. Con ngựa phun phì phì, cúi đầu nhai cỏ, một người một ngựa, thật là hòa hợp. Cửu cô nương thấy người nọ khom người chải lông ngựa, liền nhẹ giọng cất tiếng “Xin hỏi”. Người nọ nghe tiếng quay đầu, Cửu cô nương lúc này mới thấy hóa ra là một lang quân, tuổi tác ước chừng hai mươi, mặt mày tuấn lãng, hai mắt sáng ngời, đẹp hơn những mã phu bình thường khác không biết bao nhiêu lần. Cửu cô nương quen nhìn các ca ca của mình rồi, ca ca nàng người thì làm quan trong triều, người thì làm tướng quân theo bệ hạ thân chinh, cho nên nàng cũng không luống cuống chút nào, huống chi chỉ là một mã phu. Liền cười nói “Ta lạc đường, không biết trở về thế nào.” Người nọ liếc nàng một cái, hỏi “Ngươi là kẻ mới tiến cung năm nay?” Cửu cô nương vừa mới đổ mồ hôi như mưa, hoa vẽ giữa chân mày cũng trôi đi mất, trang sức đều tháo cả, bấy giờ ăn mặc quả thực không khác gì cung nữ. Nàng lại nhanh trí nhớ tới mẫu thân từng nhắc năm nay có tuyển thêm cung nữ vào cung, liền gật gật đầu “Đúng vậy, ta vừa tiến cung năm nay, cho nên mới không biết đường đi.” Người nọ lại hỏi “Ngươi làm việc ở chỗ nào?” Cửu cô nương thoạt nghĩ, nói “Nữ quan nương nương sai ta tới lầu Thanh Phong, ta mới đi lầm đường.” Người nọ nói “Vì sao nữ quan nương nương lại bảo ngươi đi lầu Thanh Phong?” Cửu cô nương chưa từng nghĩ tới chuyện này, đành phải vất vả ứng đối “Nữ quan đại nhân nói, nương nương muốn nhìn Khúc Giang náo nhiệt tiết Thượng Tị, chỉ là thân thể nương nương không tốt, không lên được lầu cao, người mới mệnh ta đi lầu Thanh Phong nhìn xem, trở về họa lại cho nương nương trông thấy.” Người kia hỏi “Ngươi biết vẽ sao?” Cửu cô nương đáp “Đúng vậy.” Người nọ liền chỉ tay vào con ngựa, bảo rằng “Ngươi vẽ con ngựa này cho ta xem.” Cửu cô nương vốn là người nhiệt tình, thấy hắn thật tâm yêu quý con ngựa, bằng không sẽ không cầm bàn chải, ở đâu rủ rỉ với nó thế này, cho nên mới cười nói “Vẽ cũng được thôi, nhưng mà ngươi phải lấy một chén nước cho ta uống.” Đã quá trưa, ngày xuân thái dương đang thịnh, nàng lại đi loanh quanh cả ngày, mới nãy lại nói chuyện, bởi vậy càng thêm khát. Người nọ cười, xoay người rời đi, chỉ chốc lát sau trở lại với một chiếc bình, nói rằng “Không tìm thấy nước, chỉ có rượu thôi, ngươi có uống không?” Cửu cô nương quả thực khát lắm rồi, nhận lấy bình liền uống một hớp lớn, không khỏi khen “Rượu ngon!” Lại nâng bình lên uống hai ngụm nữa, nói “Rượu này thật không tồi đấy!” Người nọ thấy nàng khen rượu ngon, cũng chỉ cười. Cửu cô nương cầm nhánh cây, ngắm nghía mặt đất, lại bẻ một cành nhỏ, đôi tay thoăn thoát, chỉ lát sau một con ngựa nho nhỏ liền hiện ra. Tuy là tranh vẽ bằng nhánh cây, nhưng nàng có khiếu từ nhỏ, tài vẽ sinh động chân thật, thực giống như đúc. Người nọ liền gọi con ngựa “Ngươi tới đây xem nàng vẽ có giống không?” Con ngựa nghển cổ nhìn thấy lại phun phì phì, thật ra nó quay sang, Cửu cô nương liền cười mà vỗ vỗ nó. Mà con ngựa này cũng thật kiêu ngạo, nó liền tức khắc quay đầu đi, tựa hồ không kiên nhẫn cho nàng đụng chạm. Cửu cô nương nói “Vẽ cho ngươi, ngươi còn không thích ta.” Mã phu ánh mắt dường như có điểm khác lạ, y nói “Con ngựa này tính tình không tốt, người khác chạm vào nó, nó đều tung cước đấy. Ngươi chụp đầu của nó mà nó chỉ quay đầu, tính ra đã khách khí lắm rồi.” Cửu cô nương nói “Nói như vậy, mã huynh xem ra đã nể mặt mũi ta lắm rồi?” Lời còn chưa dứt, con ngựa lại phun phì phì, tựa như tán đồng, Cửu cô nương liền bái một cái “Hôm nay được vẽ tranh cho mã huynh, thật may mắn lắm thay.” Nói đến đây mã phu cũng không nhịn được mỉm cười. Cửu cô nương liền nói “Ngươi còn cười, còn không phải do kẻ chăn ngựa kiêu ngạo như ngươi, ở đâu ra con ngựa kiêu ngạo đến thế?” Mã phu nọ cũng không so đo với nàng, chỉ nhàn nhạt nói “Tiểu cô nương sai rồi, con ngựa này từ nhỏ đã kiêu ngạo, chuyện này chẳng liên quan gì đến kẻ chăn ngựa ta đây.”
phiên ngoại đông cung